Di sản văn hóa thế giới có thể là một địa điểm, hay một tác phẩn, di chỉ,… mang đậm văn hóa độc đáo và đắc sắc được công nhận trên toàn thế giới. Bất kỳ quốc gia nào sở hữu những di sản được UNESCO công nhận đều là niềm tự hào to lớn. Cụ thể, ở Việt Nam có rất nhiều những di sản văn hóa được công nhận, được gìn giữ và bảo tồn tới ngay nay. Cùng tìm hiểu để biết rõ hơn về top 10 di sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Việt Nam khiến cả dân tộc luôn cảm thấy tự hài khi nhắc tới.
Quần thể Cố đô Huế
Được biết tới là kinh đô một thời của nước Việt Nam ta, Cố đô Huế với những nét đặc trưng, khác biệt trở thành một nét đẹp không thể xóa bỏ trong văn hóa của dân tộc. Đó là hệ thống những đền chùa, thành quách, lăng tẩm với kiến trúc nguy nga, lộng lẫy và vô cùng độc đáo. Với tổng diện tích quần thể Cố đô hiện tại với hơn 500ha rộng lớn, với ba vòng thành theo thứ tự từ nhỏ tới lớn là Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành.
Nằm 1993, quần thể Cố đô Huế chính thức được UNESCO công nhận là DI sản văn hóa thế giới. Hiện nay, nơi đây gìn giữ lại rất nhiều những vật thể và phi vật thể, với nhiều nét đặc trưng trong kiến trúc Đông Tây kết hợp vô cùng hoàn hảo. Nó trở thành một biểu tưởng của vùng đất Thừa Thiên Huế, cũng như cả đất nước. Nó là biểu tượng cho trí tuệ, cho tâm hồn của người Việt.
Phong Nha – Kẻ Bàng
Phong Nha – Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ năm 2003 với tổng diện tích lên tới 85.754ha vô cùng rộng lớn. Đây chính là khu bảo tồn thiên nhiên nằm tại huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hiện nay, đây là khu vực được quản lý chặt chẽ để đảm bảo có thể bảo vệ được tới mức tối đa.
Nét đặc trưng nổi bật tạo nên khác biệt của vườn quốc gia này nằm ở hệ thống kiến tạo đá vôi, hệ thống hang động, sông ngầm cũng như hệ động thực vật quý hiếm. Có rất nhiều loài động vật, thực phẩm trong Sách Đỏ Việt Nam hiện được bảo tồn tại vườn quốc gia này. Ngoài ra, với Phong Nha – Kẻ Bàng không chỉ đơn giản là thảm rừng, động vật hoang dã vô cùng quý mà còn nổi bật với hệ thống hang động khổng lồ.
Hơn 300 hang động lớn nhỏ khác nhau tại đây giúp Phong Nha – Kẻ Bàng được biết tới với tên gọi là Vương quốc hang động. Nó mở ra cơ hội khám phá đầy thú vị, đầy hứng khởi cho mỗi du khách khi tới và trải nghiệm tại vùng đất tươi đẹp này. Được đánh giá sở hữu sông ngầm dài nhất, với cửa hang cao nhất, rộng nhất, và những bờ cát đẹp nhất, thạch nhũ ấn tượng nhất thì tới hang động tại Phong Nha – Kẻ Bàng sẽ mang tới những trải nghiệm vô cùng mới mẻ.
Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long chính là minh chứng, những dấu tích còn để lại sau quá trình hình thành và phát triển của trái đất. Đây được biết tới là cái nôi của người Việt cổ, đồng thời được ví như một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại mà thiên nhiên đã tạo ra. Sở hữu hàng nhìn đảo đá với nhiều hình dạng khác nhau, những hang động kỳ thú tạo nên một quần thể sinh động, huyền bí đầy ấn tượng.
Không chỉ vậy, tới với Vịnh Hạ Long chúng ta còn có thể thấy được sự đa dạng sinh học, từ hệ sinh thái điển hình mà nơi này sở hữu. Đó là hệ sinh thái rừng ngập mặn, rạn san hô, hay rừng cây nhiệt đới,… mang tới những điểm khác biệt, đầy mới mẻ cho nơi đây. Chính từ hàng nghìn loài động vật, thực vật phong phú hiện có càng nâng cao giá trị của Vịnh Hạ Long.
Năm 1994 Vịnh Hạ Long lần đầu tiên được UNESCO công nhận là một Di sản thiên nhiên thế giới. Tiếp theo đó, tới năm 2000 thì nơi đây tiếp tục được công nhận là Di sản địa chất thế giới bởi những độc đáo về địa chất mà không nơi nào có được tại Vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long cũng đã xuất hiện trong tiêu đề nhiều bài viết trên trang tin tức magazinesusa.com của Mỹ, không chỉ giúp nhiều người biết đến Vịnh Hạ Long mà Việt Nam cũng được biết đến là đất nước có những kỳ quan thế giới độc đáo.
Khu di tích Mỹ Sơn
Chính thức nằm trong số những Di sản văn hóa thế giới vào năm 1999 là thành tích đáng kể mà khu di tích Mỹ Sơn có được. Đây chính là khu đền tháp đặc trưng của điêu khắc Chăm cổ, được phát hiện vào năm 1898 bởi học giả người Pháp là M.C.Paris. Toàn bộ khu di tích nằm trong khu vực thung lũng Mỹ Sơn thuộc địa phận của xã Duy Phú, Duy Xuyên của Quảng Nam.
Quay về lịch sử từ thế kỷ thứ 4 thì khu vực này được xây dựng, là quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp, sở hữu nhiều kiến thức đầy độc đáo. Nó là nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc đặc trưng của dân tộc Chăm. Được biết tới là đền đài chính, nổi bật của đại Hindu – Ấn Độ giáo nằm tại khu vực Đông Nam Á, đồng thời cũng là di sản duy nhất của người Việt ở thể loại này nên vô cùng quý giá. Nếu bạn có ý định tham quan về bảo tàng chăm thì có một số lưu ý dành cho bạn tại đây
Hoàng thành Thăng Long
Hoàng thành Thăng Long là khu vực bao gồm có Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diện ( diện tích 47 nghìn m2 ) và khu Thành cổ Hà Nội ( diện tích hơn 138 nghìn m2 ) kết hợp hoàn hảo tạo nên một thể thống nhất. Di sản này được coi là minh chứng rõ nét, chân thực nhất cho những sự kiện trong đại, gắn liền với lịch sử của cả dân tộc, trong mối quan hệ, liên quan với khu vực và trên toàn thế giới. Hoàng Thành Thăng Long chính là minh chứng còn lại duy nhất cho truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt tại khu vực Châu thổ sông Hồng, xuyên suốt chiều dài hàng nghìn năm lịch sử.
Thông qua những gì còn lại tại Hoàng thành Thăng Long chúng ta có thể thấy được nó thể hiện cho chuỗi lịch sử nối tiếp nhau, có sự thay đổi nhưng liên tục qua các vương triều cai trị. Nó thể hiện qua mọi mặt từ chính trị, tư tưởng, hành trình, kinh tế, văn hóa,… của người Việt gần 1000 năm.
Phố Cổ Hội An
Nằm tại thị xã Hội An của tỉnh Quảng Nam thì Phố Cổ Hội An chính thức trở thành Di sản văn hóa thế giới từ năm 1999 tới nay. Đây là khu vực phố được hình thành, xây dựng từ thế kỷ 16 – 17 và còn tồn tại được tới ngay nay. Trước kia, đây được biết tới là thương cảng chính tại khu vực miền Trung.
Việc có thể bảo tồn gần như nguyên trạng có thể thấy được sự quan trọng, ý nghĩa của di sản văn hóa này đối với người Việt nói chung và người dân Quảng Nam nói riêng. Khu vực Phố cổ này chính là quần thể bao gồm kiến trúc của nhiều công trình từ nhà ở, đình chùa, hội quán, hay cầu, nhà thờ, bến cảng, miếu,… cấu thành nên. Đây là một mô hình phổ biến, đặc trưng của đô thị thương nghiệp của người phương Đông trong thời kỳ Trung đại.
Cho tới ngày nay thì cuộc sống của người dân tại khu vực Phố cổ vẫn được gìn giữ, mang những nét đặc trưng. Duy trì bền vững, trở thành một bảo tàng sống về lối sống đô thị phong kiến, kiến trúc phong kiến với sự nỗ lực bảo vệ không ngừng của người dân nơi đây.
Nhã nhạc cung đình Huế
Là Di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của nước ta, chính thức được công nhận từ năm 2003, được đánh giá mang đậm ý nghĩa “âm nhạc tao nhã” mà không phải nơi nào cũng có được. Nhã nhạc chính là âm nhạc cung đình Việt Nam từ xưa, thường được tổ chức tại các lễ hội, lễ đăng quang, lễ đón tiếp chính thức,… của nhà nước Việt thời kỳ phong kiến.
Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu giá trị, đáng giá của nhân loại.
Quan họ Bắc Ninh
Quan họ Bắc Ninh chính là làn điệu dân ca đặc trưng của vùng đất đồng bằng Bắc Bộ. đây là nét đẹp văn hóa, tập trung chủ yếu ở vùng đất Kinh Bắc, nay là Bắc Ninh và Bắc Giang của nước ta. Nó được đánh giá là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca, khó sánh kịp.
Tính tới nay, tại Bắc Ninh còn lại gần 30 làng Quan họ gốc, với khoảng hơn 300 làn điệu dân ca được truyền lại từ đời này sang đời khác. Theo những gì mà UNESCO đánh giá thì Quan họ Bắc Ninh mang tới những giá trị văn hóa rất đặc biệt, thể hiện cho tập quán xã hội, cho nghệ thuật trình duyễn, cũng như kỹ thuật hạt, hay ứng xử văn hóa, kết hợp cùng ngôn ngữ đẹp và trang phục ấn tượng. Tất cả kết hợp lại trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Cồng chiêng Tây Nguyên
Nổi bật tại dải đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, chủ yếu tại những tỉnh là Lâm Đồng, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông. Không gian Cồng chiêng Tây Nguyên có chủ thể bao gồm nhiều dân tộc khác nhau tại Tây Nguyên như Bana, Ê đê, hay Mạ,… còn gìn giữ lại cho tới ngày nay.
Văn hóa cồng chiêng được đánh giá là loại hình nghệ thuật luôn luôn song hành, gắn liền với lịch sử văn hóa của các dân tộc thiểu số tại khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên của Việt Nam. Sử dụng cồng chiêng tạo nên những bản nhạc khác biệt cho dân tộc minh vào những dịp đặc biệt. Qua nhiều năm từ khi hình ảnh, phát triển và được gìn giữ cho tới nay thì Cồng chiêng Tây Nguyên vẫn giữ được giá trị, sức quyến rũ của riêng mình. Bởi thế, năm 2005 thì UNESCO công nhận trở thành Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
Ca trù
Ca trù còn được biết tới với tên gọi là hát ả đào, hay hát cô đầu, một bộ môn nghệ thuật đặc trưng của khu vực miền Bắc Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 15 trở đi thì ca trù vô cùng phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa của người Việt.
Nhạc cụ đặc biệt của ca trù chính là phách, đàn đáy và trống chầu để tạo nên những bản nhạc đầy mới mẻ và khac biệt. Nếu xem xét trên phương diện văn học thì ca trù chính là yếu tố giúp tạo nên một thể loại văn học đầy độc đáo là hát nói. Từ đánh giá của UNESCO thì ca trù chính là thể hiện ý thức về bản sắc, đồng thời là sự kết tục trong nghệ thuật biểu diễn, mang tính sáng tạo cao. Nó được chuyển giao từ thế hệ này sang một thế hệ khác qua các tổ chức giáo phường. Dù rằng có nhiều biến động, có nhiều thăng trầm song ca trù vẫn có sức sống riêng, mang trong mình những giá trị nghệ thuật nhất định trong văn hóa Việt.
Ca trù được UNESCO công nhận là Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp từ 1/10/2009. Điều đó có thể cho thấy được giá trị, ý nghĩa to lớn về mặt văn hóa mà loại hình nghệ thuật này mang lại.
Dù là Di sản văn hóa vật thể hay phi vật thế đều mang những ý nghĩa của riêng mình. Bởi thế, việc mà chúng ta cần làm chính là tìm hiểu để có thêm hiểu biết, đồng thời có ý thức trong việc gìn giữ. Có thể bảo vệ được những di sản văn hóa sẽ bảo vệ được cho chính đời sống tinh thần của một quốc gia, một dân tộc.
>>> Xem thêm top 10 bảo tàng nên tham quan ở Việt Nam <<<